13 tháng 10, 2022

BÁT TỤ BẢO TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI

LT: Bát tụ bảo - Một loại vật phẩm phong thủy có nguồn gốc tự nhiên đang được ưa chuộng hiện nay. Tuy nhiên, tài liệu về chúng hiện đang còn rất tản mạn, khó truy cập. Bài viết dưới đây là kết quả của sự góp nhặt, tổng hợp và biên tập lại theo hướng bình dân, dễ đọc. Thân ái chia sẻ cùng anh em thân hữu quan tâm.

 

   Ảnh 1: Một tác phẩm bát tụ bảo dạng 1 của tác giả , chế tác từ đá tự nhiên 100%. Lớp ngoài mã não, lớp trong là thạch anh trắng. (Ảnh Lê Thạnh)

 BÁT TỤ BẢO LÀ GÌ?

Bát tụ bảo là vật phẩm phong thủy, có nguồn gốc tự nhiên, đặc biệt là đá thạch anh tự nhiên, thạch anh tím có kết tinh dạng hốc, được chế tác chủ yếu bằng phương pháp vật lý (cắt, gọt, đánh bóng…) để tạo nên một tác phẩm bát tụ bảo nghệ thuật và phong thủy. Bát tụ bảo thường ở dạng trứng, ổ, hốc, hang... bên trong phủ những tinh thể thạch anh hay còn gọi là noãn thạch hoặc gọi là trứng đá.

Từ bát tụ bảo được giới chuyên môn đặt ra và đã được các cộng đồng nghệ nhân công nhận, để chỉ tác dụng tích tụ những năng lượng bên trong, giúp tăng cường vượng khí và thu hút tài lộc cũng như may mắn cho con người trong tầm ảnh hưởng.

Hiện nay, trên thế giới và cả nước ta, bát tụ bảo được tìm thấy phổ biến ở 3 dạng:

- Dạng thứ nhất, được khai thác tự nhiên được kết tinh từ lớp mã não bên ngoài, bao bọc lớp thạch anh hoặc nhũ can thạch tự nhiên bên trong. Nghệ nhân chế tác chỉ tác động xử lý mặt ngoài của viên đá, cắt và mài bóng rồi đặt tất cả lên một đế gỗ (gỗ quý) để tạo nên một tác phẩm bát tụ bảo hoàn chỉnh.

Với dạng này, bát tụ bảo có kết tinh từ đá mã não bên ngoài và bên trong là các tinh thể hốc thạch anh hoặc các nhũ can thạch tự nhiên. Một sự kết hợp hoàn hảo này như một món quà thiên nhiên ban tặng cho con người. Sự cộng hưởng giữa hai loại đá mang tính phong thủy cao như đá mã não và đá thạch anh đã tạo nên một năng lượng từ trường tuyệt vời giúp thu hút và tích tụ những năng lượng tốt tạo nên ý nghĩa và công dụng giúp cho cuộc sống con người cảm thấy nhẹ nhàng và thuận lợi trong mọi công việc. Đồng thời cuộc sống cũng trở nên hài hòa và tốt đẹp hơn.

30 tháng 9, 2022

TỔNG QUAN VỀ HỔ PHÁCH (AMBER)


Ảnh 1: Tác phẩm hổ phách tại Nhà Dị nhân Lê Thạnh
(ảnh Lê Thạnh)
 

Hổ phách là gì?

Hổ phách là loại nhựa cây hóa thạch được tìm thấy trong các cây cổ thụ lâu đời. Hổ phách còn có tên khoa học tiếng anh là Amber. Trái với suy nghĩ của nhiều người, hổ phách không thực sự là một loại đá quý. Trên thực tế, những viên đá này lại chính là nhựa cây hóa thạch có tuổi từ 30 đến 90 triệu năm.

Tinh thể đá hổ phách amber được đánh giá cao vì màu có sắc ấm và vẻ đẹp của chúng, được chạm khắc thành các món đồ trang sức và được trao đổi giữa các nền văn hóa trong hàng nghìn năm thời cổ đại.

Mảnh hổ phách lâu đời nhất từng được phát hiện có độ tuổi ước tính khoảng 320 triệu năm. Những viên đá ít hơn khoảng dưới 100.000 năm tuổi có giá trị thấp hơn nhiều.

Hầu hết hổ phách bán ở Việt Nam có màu vàng, cam hoặc nâu đất. Rất ít những viên hổ phách xanh lam được chào bán vì độ quý hiếm và độc đáo của nó.

Hổ phách và hổ phách non thường được xác định bằng niên đại của viên đá (độ tuổi). Hiện nay ở Việt Nam, các phòng kiểm định đơn lẻ thường không có đủ thiết bị để giám định niên đại viên đá. Do vậy một số phòng kiểm định sẽ đưa ra kết quả không chính xác giữa hổ phách và hổ phách non.

19 tháng 9, 2022

Tại sao lại có tên hoa dâm bụt?

 

  •   


Hoa tên là Dâm bụt là phiên âm cổ Hán - Việt từ tiếng Phạm là Jambu/Jum bu, tiếng Pali cũng vậy: Jum bu. Tên khoa học của nó là Eugenia jampulana. Khi để chỉ vùng đất có cây Jum bu thì người ta chuyển thành Jam bu - dvipa (Phạm), Jam bu-dipa (Pa li). Hán điển ghi: “Diêm phù, tiếng Phạn là jambu, là tên cây” (閻浮,梵語 jambu,乃樹之名).

Loài hoa này vốn ở Ấn Độ, theo Phật giáo Bắc truyền mà lan tỏa. Trung Hoa cổ xưa có nhiu cách chuyển ngữ để gọi tên loài hoa này.

Cách thứ nhất là chuyển phiên âm từ Phạm sang Hán: Diêm phù [閻浮], Thim phù [譫浮], Thiệm bộ [贍], Chiêm bộ [瞻部], Diệm phù [剡浮], Nhiễm bộ [染部], Tim mô [謨]. Các từ có chữ “thụ” kèm theo là từ ghép cố định. Ở đây ta thấy âm tiết Jam/Jum đã chuyển thành Diêm, Diệm, Thim, Nhiễm, Tim. Âm tiết Bu hoặc Bu-d được chuyển thành âm Phù, Bô, Mô.

Cách thứ hai là một phần phiên âm một phần dịch nghĩa: Ví dụ như Phật tang [佛桑], Phù tang [扶桑]. Ở đây, người ta dùng âm Phù hay Phật để phiên âm Bu hay Bu-d (Bu-d là cách đọc nối âm trong địa danh Bu-dvipa hay Bu-dipa, có sách còn ghi Budvipa/Budipa, không có dấu gạch nối), còn Tang là loài cây dâu.

Cách thứ ba là dịch sang chữ và nghĩa Hán hoàn toàn: đó là cây Mộc cận/cẩn [木槿], Chu cận/cẩn朱槿. Chữ “mộc” mang nghĩa là cây. Chữ “chu” có nghĩa là đỏ. Chữ “cận/cẩn” là để chỉ một loài hoa tương ứng có ở Trung Hoa.

Các từ điển đối ngữ đu dịch các tên hoa trên đây sang tiếng Việt là Dâm bụt. Trong “Phật quang đại từđiển”, các mục viết liên quan đến loài hoa Dâm bụt này ta thấy:

- Mục Diêm phù đề 閻浮提 viết: “Phạm: Jambu-dvipa, Pali: Jambu-dipa. Cũng gọi Diêm phù đ. Thiệm bồ đ, Diêm phù đ tì ba, Diêm phù, Phạm: Jambu là tên cây; đ, Phạm: dvipa, là châu. Dịch cả Phạm Hán thì gọi là Diêm phù châu, Thiệm bộ châu, Thim phú châu. Gọi tắt là Diêm phù… Châu này là châu phương Nam trong bốn đại châu Tu Di cho nên cũng gọi là Nam Diêm phù đ…”.

- Mục Diêm phù đàn kim viết: “Phạm: Jambunada-suvarna. Ý nói loại vàng được sản xuất từ dòng sông Na đa (nada, đàn) chảy qua rừng cây Diêm phù (Jambu)…”.

Đặc biệt mục Diêm phù thụ viết: “Diêm phù, Phạm; Pali: Jumbu cũng gọi là Thiêm phù thụ, Thiệm bộ thụ…, gọi tắt Diêm phù. Tên khoa học là Eugenia jambulana. Thuộc loại cây cao lá rụng. Vốn sinh ở Ấn Độ, nở hoa, kết trái vào khoảng tháng 4, tháng 5, quả mầu tía đậm, vị hơi chua, hột có thể dùng làm thuốc…”.

Trong tiếng Việt để chỉ loại cây này có các từ như: Dâm bụt, Râm bụt, Bông bụt, Bồng bụt, Bông bụp, Dâu bụt, Dâng bụt…

Trong đó phải nói tên Dâm bụt là phổ dụng hơn cả. Cũng vì thế nó là khởi nguồn cho những ý kiến bàn bạc v tên hoa này nên như thế nào. Các từ điển như Tự điển Việt Nam của nhóm Khai trí Tiếđức, Từ điển Việt HánTừ điển tiếng Việt thông dụng lựa chọn cách ghi Dâm bụt.

Tên Râm bụt cũng được nhiu người ghi, chủ yếu là để tránh âm “Dâm” (dễ bị hiểu nhầm thành 淫) vốn không hợp với nhà Phật, với Bụt. Nhưng khi pháâm, người Bắc Bộ nói chung vẫn gọi là Dâm bụt.

Tên Bông bụt hay Bồng bụt chủ yếđược nói năng từ Nghệ Tĩnh trở vào phía Nam. Bông có nghĩa là hoa trong từ ghép “bông hoa”. Chữ Bông bụt này đã được các từ điển ở Nam bộ như Việt Pháp từ điển của Trương Vĩnh KýĐại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh - Tịnh Paulus Của ghi nhận (mục từ Bông).

Tên Bồng bụt hay Bông bụp là từ địa phương. Ít phổ biến.

Tên Dâu bụt chắc là lấy loài dâu có lá cành khá giống với Dâm bụt để gọi, tránh được chữ “dâm” và cũng có thể là ai đó đã chuyển dịch từ hai chữ Phật tang âm Hán - Việt (Phật = Bụt, Tang = Dâu). Ít phổ biến.

Tên Dâng bụt dù khá gần âm với Dâm bụt nhưng v ngữ âm khó chuyển đổi. Vả lại nó cũng chỉ là ý kiếđ xuất của cá nhân trong bàn luận chứ dân dã không dùng.

Xem những tên hoa được trích ra ở trên, chúng ta thấy rằng, vốn Jambu, Jumbu, đất Jambu-dvia, nghĩa của nó không liên quan gì trực tiếđếĐức Phật cả. Vậy tại sao nó lại mang nghĩa Phật?

Vấn đ ở chỗ, thứ nhất, Hán cổ đã dùng âphù”để phiên âm tên Đức Phật: Buddha trong tiếng Phạm và Pali vốn đã được phiên thành các chữ là Phù đà, Phù đồ, Phù đầu trước cả khi phiên là Phật, Phật Đà. Ấn tượng mạnh mẽ về Đức Phật, v Phật giáo đã khiến người ta liên hội âm Phù trong Diêm phù đ với biểu tượng Phật. Thứ hai, loài cây hoa này xuất phát từ cõi Diêm phù đ, một trong bốn đại địa của Ấn Độ quanh núi Tu Di huyền thoại nên ấn tượng nghĩđó càng mạnh mẽ. Thế là từ đó, ta thấy sự chuyển tự đã khẳng định nghĩa của nó từ Phù tang sang Phật tang (cây dâu nhà Phật). Đến lúc này thì ý nghĩa v nhà Phật, Đức Phật đã hoàn toàn ấn định.

Chữ Bụt của tiếng Việt cũng vốn là một cổ Hán ngữ của chữ Phù/Phật, cho nên ý nghĩa v loài hoa này gắn với nhà Phật là sự tiếp biến tự nhiên.

Nhưng bây giờ xem lại ta lại thấy giữa Jam/Jum => Dâm, giữa Bu/Bu-d (nối âm) => Bụt quả là gần gũi v ngữ âm hơn các cách phiên Hán tựLiệu chăng, âm nàđã vào tiếng Việt qua con đường truyn giáo trực tiếp của các nhà sư Ấn Độ ở trong dân gian? Chắc là nó lưu giữ một hình thức phát âm cổ hơn.

Nhưng cũng có thể suy luận theo sự tương sánh thường thấy về âm đọc, giữa Diêm - Dâm mà nhiều âm khác cũng như thế. Ví dụ; Nghiệm - Ngẫm (trong Ngẫm nghĩ), Nhiệm - Nhậm (trong nhậm chức, nhậm sự), Liễm - Lậm (trong lậm tiền, ăn lậm), Hiềm - Hầm (trong giận dữ hầm hầm), Điểm - Chấm, Điểm - Lấm (trong lấm tấm), Triêm - Trấm/Rấm (trong trẩm nước, rấm nước), Yểm - Ẩm (trong ẩm ướt). Còn từ Phù hoặc Phật tương sánh với Bụt cũng là điều thường găp.

Nói tóm lại, chúng ta có cách chuyển ngữ từ Phạm sang âm Việt cổ:

                                                            JAMBU/JAMBU-D => DÂM BỤT.

Và, một lần nữa, ta thấy Dâm ở đây trong nghĩa gốc gác vốn chả gắn gì với dâm bôn, dâm dục, cũng như Bụt ở đây chả gắn gì với Đức Phật cả. Có thể thừa nhận sự lây nhiễm nghĩa trong nói năng thường nhật nhưng cũng cần hiểu cái gốc gác hữu lý của nó.

Viếđếđây, tôi lại nhớ bài thơ Mộc cận của Ức Trai Nguyễn Trãi trong phần Hoa mộc môn:

                                                     Ánh nước hoa in một sắc hồng

                                                    Vẩn nhơ chẳng bén Bụt là lòng

                                                     Chiu mai nở chiu hôm rụng

                                                     Sự lạ cho hay tuyệt sắc không.

Bài thơ nằm trong truyn thống hiểu Bụt là nhà Phật nhưng qua lăng kính của nhà Nho. Dù hoa thường trồng bên bờ ao, bóng hoa in xuống nước, nhưng vẫn giữ màu hồng tinh khôi của nó, không h bén chút vẩn nhơ. Nó không chút vẩn nhơ vì đã đạt được cái tâm Phật (Phất tức thị tâm, tâm tức thị Phật). Nhưng biết đâu, Nguyễn Trãi, với ba chữ “bụt làm lòng”, cụ ngầm muốn đề xuất một tên gọi “Tâm Bụt” cho loài hoa này. Hai chữ “chiu” trong văn bản không phải là “buổi chiu” như ta thường nghĩ. Nó là một từ chỉ một trạng thái thời gian, không gian, tâm trạng, sự việc mà tính xác định là không hoàn toàn cụ thể. Có chiu phong vận, có chiu thanh tân (Nguyễn Du), Người xuống ngựa, khách dừng chèo/Chén qunh mong cạn, nhớ chiu trúc ty (Phan Huy Ích). Ở đây ta phải hiểu là: chừng mai nở chừng hôm rụng, nghĩa là ban mai thì nở mà chiu hôm đã rụng. Sự vô thường của cuộc đời ngắn ngủi. Đếđây ta có thể liên hệ với hai câu thơ trong bàCận hoa của Thôi Đạo Dung thời vãn Đường:

                                                     Cận hoa bất kiến tịch

                                                      Nhất nhật nhất hồi tân

                           (Đừng ngắm dâm bụt vào chiu tối/Mỗi ngày nó lại nở vào buổi mới)

Nhưng ThôĐạo Dung không mở hướng thơ theo triết lý thin. Nguyễn Trãi thì khác: Sự lạ cho hay tuyệt sắc không, tức là sự đẹp đẽ kia cho ta thấy đã đạt đến tột cùng cái lý sắc sắc không không.

Mà vẫn chưa hết, ba chữ “tuyệt sắc không” còn hàm cái ý là: duy chỉ có sắc mà thôi. Đúng vậy, Dâm bụt quả là chỉ có sắc mà không có hương. Một chút chơi thơ mỉm cười tinh tế của cụ Ức Trai. Chúng ta lại nhớ câu thơ của Ngô Thì Nhậm cũng viết v hoa Dâm bụt:

                                                     Tố chất vô hương thùy dữ đ

                                                     Hồng nhan bất mị cánh kham liên.

                                          (Vốn không có hương nên không ai đố kỵ

                                           Má hồng mà không khêu gợi nên lại càng thương).

Cái sự tên hoa Dâm bụt theo tôi là vậy.

NGUYỄN HÙNG VĨ - Văn Hóa Nghệ An
http://vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song/k2-extra-field-groups/cuoc-song-quanh-ta/14871-tai-sao-lai-co-ten-hoa-dam-but